MỞ ĐẦU
Trong
không khí tự hào và xúc động của những ngày mùa thu lịch sử, dân tộc Việt Nam
cùng nhìn lại chặng đường 80 năm độc lập – một hành trình đầy gian khổ nhưng
cũng vô cùng vĩ đại. Tám thập kỷ ấy không chỉ là bản hùng ca về ý chí bảo vệ Tổ
quốc, mà còn là minh chứng sống động cho tầm nhìn chiến lược và sự tài tình của
nền ngoại giao Việt Nam, một nền ngoại giao được khai sinh và dẫn lối bởi tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính
di sản vô giá này đã trở thành kim chỉ nam, giúp chúng ta vững một niềm tin vào
chính nghĩa và sức mạnh dân tộc để vượt qua mọi thử thách. Và cũng chính tư tưởng
ấy đang tiếp thêm sức mạnh để thế hệ hôm nay vững bước tương lai, tự tin đưa Việt
Nam hội nhập, trở thành một người bạn, một đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế.
Với
vai trò là cán bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi – nơi
nghiên cứu chuyên sâu về các đối tác quan trọng và tiềm năng của Việt Nam,
chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng “tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là di sản lịch sử, mà còn là chìa
khóa để
giải mã và thúc đẩy quan hệ với các quốc gia trong khu vực này”.
Nhiều nước ở châu Á và châu Phi cũng chia sẻ những tương đồng lịch sử trong cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, và chính tư tưởng của Người về đoàn kết, bình
đẳng và hợp tác cùng có lợi là cầu nối vững chắc nhất.
Vì
vậy, bài báo cáo của chúng tôi sẽ phân tích giá trị của tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh qua lăng kính về nghiên cứu khu vực học. Mục tiêu là làm rõ cách vận dụng
di sản của Người để xây dựng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ ổn định, bền vững
với các đối tác tại Nam Á, Tây Á và châu Phi, góp phần thực hiện thắng lợi đường
lối đối ngoại của đất nước trong giai đoạn mới.
1. TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH – NỀN TẢNG
TƯ TƯỞNG CHO CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
Trong
dòng chảy lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sáng
con đường cách mạng mà còn là kiến trúc sư trưởng, người đặt nền móng vững chắc
cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao thể hiện rõ trong sáu đặc điểm sau:
Thứ nhất, đề cao độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế; Thứ
hai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Thứ ba, luôn yêu chuộng
hòa bình, chống chiến tranh xâm lược; Thứ tư, luôn có tinh thần hòa hiếu,
“thêm bạn, bớt thù”; Thứ năm, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; Thứ sáu, nhất
quán phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong hoạt động đối ngoại.
Tư
tưởng của Người là sự kết tinh hài hòa giữa nhiều nguồn giá trị: đó là truyền
thống hòa hiếu, khoan dung nhưng kiên cường, bất khuất; là sự tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hóa Đông - Tây; trên hết là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Người đã nâng hoạt động đối ngoại lên tầm một “mặt
trận” không có tiếng súng nhưng vô cùng cam go. Người đã từng
chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực qua hình ảnh ví von
kinh điển: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to
tiếng mới lớn”. Luận điểm này khẳng định rằng, một nền ngoại giao mạnh phải
được xây dựng trên cơ sở một quốc gia có thực lực vững vàng.
Nền
tảng tư tưởng ấy được xây dựng trên những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt, vừa nhất
quán về mục tiêu, vừa linh hoạt về sách lược. Nguyên tắc tối thượng và bất biến
chính là “độc lập, tự chủ, vì lợi ích quốc gia - dân tộc”. Mọi hoạt động đối
ngoại đều phải quy về mục tiêu cuối cùng là giữ vững nền độc lập và bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ. Để thực hiện mục tiêu đó, Người chủ trương phải kết hợp nhuần
nhuyễn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, nghệ thuật ứng xử “dĩ
bất biến, ứng vạn biến” đã trở thành phương châm chỉ đạo
kim chỉ nam. “Cái
bất biến”
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, còn “cái
vạn biến”
là sách lược, phương pháp mềm dẻo, linh hoạt, thậm chí “biết
nhân nhượng để giữ vững nguyên tắc” khi cần thiết.
Ngày
nay, khi thế giới bước vào một giai đoạn đầy biến động, di sản ngoại giao Hồ
Chí Minh càng chứng tỏ giá trị thời đại sâu sắc. Tinh thần đó được Đảng ta kế
thừa và phát triển sáng tạo, thể hiện rõ trong đường lối đối ngoại được nêu tại
Văn kiện Đại hội XIII: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại”. Thực tiễn sinh động của việc Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến
lược và đối tác toàn diện, đồng thời tham gia tích cực và có trách nhiệm tại
các diễn đàn đa phương, chính là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt của
tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời đại mới.
Đối
với những người làm công tác nghiên cứu, đặc biệt tại các viện chuyên sâu về
khu vực học như Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi, việc đào sâu di sản
này có ý nghĩa chiến lược. Đây không chỉ là nhiệm vụ học thuật, mà còn là trách
nhiệm cung cấp luận cứ khoa học, giúp hoạch định chính sách đối ngoại hiệu quả,
nhất là trong việc xây dựng lòng tin chiến lược và thúc đẩy hợp tác thực chất với
các đối tác trong khu vực. Tinh thần hòa hiếu nhưng kiên định, nhân văn nhưng
quyết đoán của Người chính là điểm tựa tư tưởng vững chắc để ngoại giao Việt
Nam tiếp tục vững bước, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc.
2. LỢI ÍCH QUỐC GIA – DÂN TỘC: CHUẨN MỰC
CAO NHẤT XUYÊN SUỐT 80 NĂM LỊCH SỬ
Một
trong những di huấn lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho sự nghiệp đối
ngoại là lời căn dặn giản dị mà sâu sắc: “Việc gì lợi cho dân thì hết sức làm,
việc gì hại đến dân thì hết sức tránh”. Tư tưởng ấy không chỉ là nguyên tắc đạo
đức của người cán bộ, mà đã trở thành trụ cột bất biến trong hoạch định đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn lại chặng đường 80 năm kể từ ngày độc lập,
có thể khẳng định rằng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, từ chiến tranh gian khổ
đến hòa bình, xây dựng, Đảng ta luôn đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết
và trước hết. Đây chính là chuẩn mực tối thượng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, giúp
Việt Nam vững vàng trước mọi biến động và thách thức.
Lợi
ích quốc gia – dân tộc không phải là một khái niệm trừu tượng, mà được cụ thể
hóa một cách khoa học trong từng giai đoạn lịch sử. Suốt 80 năm qua, mục tiêu
đó luôn là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng
cao đời sống nhân dân. Trong thực tiễn đối ngoại, nguyên tắc này thể hiện rõ
nét qua cách Việt Nam xử lý những vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Lập trường nhất
quán của chúng ta trong vấn đề Biển Đông là kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng
các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng đồng thời luôn nỗ lực
duy trì một môi trường ổn định để phát triển. Tuyên bố mạnh mẽ của lãnh đạo cấp
cao Việt Nam rằng “chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm” và Việt Nam
không đánh đổi điều đó để lấy bất kỳ lợi ích nào khác, đã khẳng định một chân
lý: lợi ích quốc gia là “hằng số chính trị” không thể bị lay chuyển.
Từ
góc độ nghiên cứu khu vực, đặc biệt là tại Nam Á, Tây Á và Châu Phi – những địa
bàn có nhiều tương đồng lịch sử với Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành và giữ
độc lập – bài học về việc đặt lợi ích dân tộc vào trung tâm càng trở nên sâu sắc.
Nhiều quốc gia trong khu vực này, sau khi giành được độc lập, cũng phải đối mặt
với sự cạnh tranh địa chính trị và sức ép từ các cường quốc. Những nước giữ vững
được sự tự chủ, kiên trì theo đuổi chính sách đối ngoại vì lợi ích của riêng
mình như Ấn Độ, hay một số quốc gia ở Trung Đông, châu Phi
đang trong quá trình chuyển dịch chính sách, đều cho thấy một quy luật chung:
trong một thế giới đa cực và đầy bất trắc, quốc gia nào không có “la bàn chiến
lược” là lợi ích dân tộc, quốc gia đó rất dễ bị chệch hướng và lệ thuộc.
Hành
trình 80 năm độc lập đã cho Việt Nam một bài học vô giá: hội nhập quốc tế sâu rộng
là con đường tất yếu, nhưng đó phải là một quá trình chủ động, có kiểm soát,
nơi lợi ích quốc gia – dân tộc phải là điểm xuất phát và cũng là đích đến của mọi
chính sách. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nguy cơ bị xâm phạm “chủ quyền
mềm” qua kinh tế, văn hóa, công nghệ là hiện hữu. Vì vậy, bản lĩnh được tôi luyện
qua 80 năm giúp chúng ta nhận thức rõ: mở cửa không đồng nghĩa với dễ dãi; hợp
tác phải đi đôi với đấu tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng. Là những người làm
công tác nghiên cứu chính sách quốc tế, chúng tôi càng thấy rõ trách nhiệm của
mình trong việc phân tích, dự báo và tham mưu, để mỗi quyết sách đối ngoại đều
trả lời được câu hỏi cốt lõi: “Quyết định này có phục vụ lợi ích lâu dài của quốc
gia không?”. Chỉ khi giữ vững được cái “bất biến” của lợi ích dân tộc, chúng ta
mới tự tin “ứng vạn biến” và tiếp tục viết nên những trang sử hào hùng mới.
3. LINH HOẠT VÀ KHÔN KHÉO: “NGHỆ THUẬT”
NGOẠI GIAO ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA 80 NĂM
Một
trong những đặc trưng nổi bật và là di sản quý báu của nền ngoại giao Việt Nam
chính là sự linh hoạt, mềm dẻo và đầy trí tuệ trong ứng xử quốc tế. Ngay từ những
ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận
dụng xuất sắc nghệ thuật ngoại giao để đưa con thuyền cách mạng non trẻ vượt qua
tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”.
Tư tưởng “tùy thời, tùy lúc” và phương châm bất hủ “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
của Người đã trở thành kim chỉ nam cho một trường phái ngoại giao khôn khéo, uyển
chuyển nhưng luôn kiên định về nguyên tắc. Nghệ thuật đó đã được tôi luyện, kiểm
chứng và phát triển không ngừng trong suốt hành trình 80 năm đấu tranh giành độc
lập, thống nhất và xây dựng đất nước.
Trong
suốt tiến trình đổi mới và hội nhập, nghệ thuật ngoại giao ấy tiếp tục được Đảng
ta vận dụng sáng tạo. Sự khôn khéo của Việt Nam thể hiện ở khả năng thiết lập
và duy trì quan hệ ổn định với tất cả các nước lớn, bất kể sự khác biệt về hệ
tư tưởng hay lợi ích chiến lược. Việt Nam chủ trương “vừa hợp tác, vừa đấu
tranh”, tạo ra thế cân bằng động, tránh rơi vào vòng xoáy đối đầu hay bị lôi
kéo, phụ thuộc. Chính bản lĩnh được đúc kết qua 80 năm đã giúp chúng ta giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để tập trung phát triển kinh tế - xã hội, ngay cả
khi cục diện thế giới chuyển dịch nhanh chóng và khó lường. Việc chủ động, mềm
dẻo điều chỉnh quan hệ với các đối tác không chỉ là nhu cầu chiến thuật, mà đã
trở thành yêu cầu chiến lược để giữ vững độc lập, tự chủ trong dài hạn.
Thực
tiễn sinh động trong quan hệ với các nước lớn đã khẳng định điều đó. Với Mỹ, từ
chỗ từng chiến tranh, Việt Nam đã từng bước nâng cấp quan hệ
lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2023, mở ra không gian hợp tác thực chất
trên nhiều lĩnh vực. Với Trung Quốc, chúng ta duy trì quan hệ láng giềng ổn định
trên tinh thần “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, kiên quyết không để bất đồng ảnh
hưởng đến cục diện hòa bình, nhưng cũng không bao giờ nhân nhượng các vấn đề
thuộc về chủ quyền lãnh thổ. Với Nga, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện tiếp
tục được củng cố dựa trên nền tảng tin cậy chính trị sâu sắc được vun đắp qua
nhiều thập kỷ.
Từ
góc độ nghiên cứu khu vực tại Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi, chúng
tôi nhận thấy rõ sự trỗi dậy của các cường quốc mới như Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập
Xê Út, Ai Cập... đang tạo ra một cấu trúc địa chính trị đa cực, đa trung tâm.
Nắm bắt xu thế này, Việt Nam đã sớm mở rộng chính sách đối ngoại, không chỉ củng
cố quan hệ với các cường quốc truyền thống mà còn tích cực tăng cường hợp tác với
các trung tâm quyền lực mới nổi. Đây là minh chứng cho tầm nhìn chiến lược và khả
năng thích ứng linh hoạt của ngoại giao Việt Nam.
Đáng
chú ý, Việt Nam cũng đang chủ động thúc đẩy quan hệ với các quốc gia có tiềm
năng lớn ở Trung Đông và Châu Phi. Việc ký kết các hiệp định song phương, mở rộng
sự hiện diện ngoại giao tại khu vực này là bước đi chiến lược, thể hiện nghệ
thuật ngoại giao chủ động mở rộng không gian phát triển, đa dạng hóa đối tác và
giảm thiểu rủi ro. Nhìn lại chặng đường 80 năm, có thể thấy, sự linh hoạt và
khôn khéo trong đối ngoại chính là một “bảo bối”, một nghệ thuật đặc sắc, thể
hiện bản lĩnh của Đảng và Nhà nước ta trong việc nắm bắt thời cơ, hóa giải
thách thức và không ngừng nâng cao vị thế đất nước. Đây chính là di sản vô giá
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là bài học kinh nghiệm sâu sắc cần tiếp tục kế thừa
và phát huy trong giai đoạn phát triển mới của dân tộc.
4. TỪ THẾ BỊ ĐỘNG ĐẾN VAI TRÒ CHỦ ĐỘNG KIẾN
TẠO: DẤU ẤN TRƯỞNG THÀNH CỦA VIỆT NAM SAU 80 NĂM
Nhìn
lại hành trình 80 năm kể từ ngày tuyên bố độc lập, một trong những thành tựu
mang tính bước ngoặt của Việt Nam chính là sự chuyển mình mạnh mẽ từ vị thế bị
động, chịu tác động sâu sắc từ môi trường bên ngoài, sang vai trò chủ động kiến
tạo và định hình cục diện. Đây là minh chứng cho sự trưởng thành vượt bậc về bản
lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong công cuộc hội nhập quốc
tế. Việt Nam ngày nay không còn là một quốc gia chỉ tiếp nhận các quy tắc, mà
đã trở thành một chủ thể tích cực, có trách nhiệm, góp phần xây dựng “luật
chơi”
chung ở khu vực và trên thế giới.
Sự
chuyển mình này được thể hiện rõ nét qua việc Việt Nam không chỉ tham gia mà
còn đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong nhiều cơ chế hợp tác quan trọng. Từ việc
gia nhập ASEAN (1995), APEC (1998), WTO (2007) đến việc chủ động đàm phán và thực
thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP, Việt Nam
đã khẳng định vị thế của một nền kinh tế năng động, có độ mở cao và là một mắt
xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đặc biệt, trong vai trò Chủ tịch
ASEAN 2020 hay Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ
2020-2021), Việt Nam đã để lại dấu ấn đậm nét về một quốc gia có khả năng điều
phối linh hoạt, dẫn dắt hợp tác và đề xuất nhiều sáng kiến thực chất, được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao.
Tinh
thần chủ động kiến tạo còn được khẳng định qua chính sách quốc phòng "bốn
không" – một tuyên ngôn dứt khoát về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình và hợp tác. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, việc kiên định
nguyên tắc này đã giúp Việt Nam giữ được thế cân bằng chiến lược, có quan hệ tốt
với tất cả các nước lớn, không bị lôi kéo vào các cuộc cạnh tranh địa chính trị,
qua đó bảo vệ tối đa lợi ích quốc gia. Đây chính là kết tinh của bản lĩnh và
kinh nghiệm được đúc rút từ 80 năm đấu tranh kiên cường để bảo vệ nền độc lập
và chủ quyền thiêng liêng của dân tộc.
Không
chỉ dừng lại ở việc bảo vệ lợi ích của mình, ngoại giao Việt Nam còn hướng đến
việc đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ngoại
giao nhân văn”
và “ngoại
giao kiến tạo hòa bình” tiếp tục được phát huy mạnh mẽ. Từ
góc độ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi, chúng tôi nhận
thấy sự chủ động của Việt Nam cũng đang được thể hiện rõ trong việc mở rộng và
làm sâu sắc quan hệ với các đối tác ngoài khu vực truyền thống. Việt Nam không
chỉ tìm kiếm thị trường, mà còn đồng kiến tạo các không gian hợp tác mới cùng
có lợi, từ năng lượng, logistics đến chuyển đổi số và nông nghiệp thông minh.
Sự
chuyển biến từ vị thế bị động sang chủ động, từ một quốc gia chịu ảnh hưởng
sang một thành viên kiến tạo môi trường quốc tế là thành quả to lớn của gần 40
năm Đổi mới, và là đỉnh cao của một quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ suốt 80
năm. Đó là kết quả của sự lãnh đạo nhất quán, kiên định của Đảng, kết hợp nhuần
nhuyễn giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Đây là
hành trang tư tưởng và thực tiễn quý báu để Việt Nam tiếp tục tự tin vững bước
trên con đường hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và hiệu quả.
5.
HỢP TÁC VIỆT NAM VỚI NAM Á, TÂY Á VÀ CHÂU PHI: THÀNH TỰU NGOẠI GIAO
SAU 80 NĂM
Trong
hợp tác ngoại giao với khu vực Nam Á, Tây Á và Châu Phi, Việt Nam đã
tận dung rõ nét hai đặc điểm trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, đó là; tôn trọng tinh thần hòa hiếu; quan hệ hữu
nghị, hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ.
Việt Nam có quan
hệ hợp tác với khu vực Nam Á từ sớm, đến nay đã có quan hệ hợp
tác với tất cả các quốc gia Nam Á. Trong đó Ấn Độ là đối tác
chiến lược toàn diện.
Sri
Lanka (1970); Ấn Độ (hợp tác chính thức năm 1972, đến năm 2007 nâng lên
cấp Đối tác chiến lược, năm 2016 nâng cấp Đối tác chiến lược toàn
diện); Pakistan (1972); Bangladesh (1973); Afghanistan (năm 1974); Nepal
(1975); Maldives (1975); Bhutan (2012).
Việt Nam chủ trương
thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các quốc gia ở khu vực Trung
Đông và Châu Phi
Việt Nam có quan hệ ngoại giao từ
khá sớm với 6 quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh: Kuwait (năm
1976), Oman (1992), UAE and Qatar (1993), Bahrain (1995), Saudi Arabia (1999). Hợp
tác ngoại giao chính thức của Việt Nam với Iran năm 1973, với Israel
năm 1993, với Thổ Nhĩ Kỳ năm 1978. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ với
tất cả 15 quốc gia Trung Đông và nhà nước Palestine.
Năm 2024, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với quốc gia
Châu Phi cuối cùng là Malawi. Với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với
Malawi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với tất cả 55 nước châu Phi.
Việt Nam đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Trung Đông và Châu
Phi từ năm 2008 đến nay, chia thành 2 giai đoạn cụ thể:
- Giai đoạn 1: từ năm 2008-2015:
Định hướng của Việt Nam thời kỳ này hướng theo “Đề án thúc đẩy quan hệ Việt Nam
- Trung Đông giai đoạn 2008-2015”, của Chính phủ, tập trung đến 16 quốc
gia/nhà nước ở Tây Á: 13 quốc gia và vùng lãnh thổ Arab (gồm Saudi Arabia,
Bahrain, Palestine, Iran, Iraq, Jordan, Kuwait, Lebanon, Oman, Qatar, Sirya,
UAE, Yemen); 3 quốc gia không phải Arab (gồm Israel, Thổ
Nhĩ Kỳ, Cyprus).
-
Giai đoạn 2: từ năm 2016-2025: Theo “Đề án phát triển quan hệ giữa Việt Nam và
các nước Trung Đông - Châu Phi giai đoạn 2016-2025”, Việt Nam tăng cường hợp
tác với: +) 6 quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (Saudi Arabia,
Kuwait, UAEs, Qatar, Bahrain, Oman); +) 3 quốc gia Trung Đông khác (Israel, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ); +) 5 quốc gia
châu Phi (Ai Cập, Algeria, Nam Phi, Mozambique, Angola). Giai đoạn 2 đánh dấu thời điểm Việt Nam và các nước vùng Vịnh
tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế. Đây kết quả của các
nội dung hợp tác ngoại giao trong giai đoạn trước.
Giai
đoạn 2021-2025, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng ban hành Đề án “Phát triển
quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Phi (AU) giai đoạn 2021-2025”.
Một số điểm nhấn trong quan hệ hợp tác Việt Nam với
Nam Á, Tây Á và Châu Phi:
Một là: Việt Nam coi trọng Ấn Độ là một trong những
đối tác chiến lược toàn diện hàng đầu.
Chuẩn bị Kỷ niệm 10 năm
thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện (2016-2026), hai quốc
gia càng khẳng định là đối tác quan trọng về quốc phòng, an ninh,
thương mại, đầu tư. Hai nước nỗ lực nâng kim ngạch thương mại song
phương đạt 20 tỷ USD và tăng gấp đôi đầu tư hai chiều. Trong thời gian
tới, Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ các đột phá chiến lược, nhất
là về khoa học - công nghệ và phát triển kinh tế tư nhân, Ấn Độ sẽ
là đối tác trọng yếu của Việt Nam trong các lĩnh vực công nghệ
chiến lược như trí tuệ nhân tạo AI, công nghệ thông tin, bán dẫn, năng
lượng tái tạo… Ngoài ra, Việt
Nam và Ấn Độ tiếp tục hợp tác mạnh mẽ về văn hóa, giáo dục, tôn
giáo, du lịch… để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới của
cả hai quốc gia.
Hai là: Việt Nam chú trọng hợp tác mạnh mẽ với 6
quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh
-) Trong giai đoạn 1 (năm
2008-2015), đây là giai đoạn Việt Nam và 6 quốc gia GCC liên tục mở đại sứ
quán, tổ chức các đoàn ngoại giao cấp cao, cấp bộ trưởng thăm song phương và ký
kết các hiệp định hợp tác, bước đầu khai thông quan hệ kinh tế. Bộ Công thương
Việt Nam cũng đã ban hành Chương trình hành động thực hiện đề án trên.
-) Trong giai đoạn 2 (năm 2016-2025) đánh dấu thời điểm Việt Nam và các nước vùng Vịnh tăng
cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế. Đây kết quả của các nội
dung hợp tác ngoại giao trong giai đoạn trước. Đặc biệt, tháng
10/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm chính thức Các Tiểu Vương quốc
Arab Thống nhất (UAE), Nhà nước Qatar, Vương quốc Saudi Arabia (và tham dự Hội
nghị Sáng kiến đầu tư tương lai lần thứ 8 tại Vương quốc). Chuyến thăm đánh
dấu giai đoạn hợp tác mới giữa Việt Nam với khu vực Trung Đông và Vùng Vịnh.
Bởi đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đến
UAE và Qatar sau 15 năm; chuyến thăm đầu tiên của người đứng đầu Chính phủ Việt
Nam tới Saudi Arabia kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao; lần đầu
tiên Thủ tướng Chính phủ là khách mời chính và Lãnh đạo Cấp cao duy nhất của
châu Á phát biểu tại Hội nghị Sáng kiến Đầu tư Tương lai FII (Future Investment
Initiative) do Saudi Arabia tổ chức. Việc chính thức nâng cấp
quan hệ với UAE lên Đối tác Toàn diện đã mở ra cơ hội phát triển mới cho quan
hệ hai nước. Hiệp định
Đối tác Kinh tế Toàn diện (CEPA) với UAE là hiệp định tự do thương mại thứ 17
Việt Nam tham gia ký kết, mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai chiều Việt
Nam - UAE đạt 20 tỷ USD... Việt Nam và Saudi Arabia
và Qatar nhất trí thúc đẩy sớm nâng quan hệ lên tầm cao mới trong thời gian tới
đã tạo xung lực để phát triển toàn diện quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt
giữa Việt Nam với các nước, tạo đòn bẩy để tăng cường quan hệ với các đối tác
quan trọng khác ở Trung Đông - Bắc Phi. Với Saudi Arabia, hai bên thống
nhất mục tiêu kim ngạch thương mại 10 tỷ USD; đưa Saudi Arabia trở thành một
trong các nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam… Với Qatar, hai bên nhất trí nỗ lực
nâng kim ngạch thương mại song phương trong thời gian tới; nghiên cứu thành lập
Tổ công tác chung về thương mại; xem xét khả năng xây dựng Trung tâm Triển
lãm sản phẩm Việt Nam tại Qatar; thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực tài chính...
Ba là: Việt Nam chủ trương hợp tác với tất cả các
quốc gia, không phân biệt các quốc gia đang có mâu thuẫn, thậm chí xung
đột, đối đầu
(+) Với Iran: Quan hệ Việt Nam-Iran có nhiều điểm tương đồng
về lịch sử, văn hóa; khi Iran đã và đang phải chịu sức ép lớn từ các lệnh cấm vận
của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), sự ủng hộ của Việt Nam với Iran thể hiện rõ
chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam là tăng cường hợp tác hữu nghị với
các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội.
(+) Với
Israel: Việt Nam và Israel chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao vào năm 1993 (Israel mở Đại sứ quán tại Hà Nội năm 1993 và
Việt Nam mở Đại sứ quán tại Tel Aviv năm 2009). Đây không chỉ đánh dấu bước
chuyển biến mạnh mẽ trong quan hệ chính trị mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc
đẩy quan hệ hợp tác song phương trên tất cả các lĩnh vực. Hai quốc gia đã triển
khai nhiều đợt trao đổi đoàn ngoại giao các cấp.
Về kinh tế, năm 2023, tại thủ đô Tel Aviv, Việt Nam và Israel chính
thức ký Hiệp định thương mại tự do FTA (sau 7 năm với 12 phiên đàm
phán). Như vậy, Việt Nam là nước đầu tiên ở ASEAN được Israel chọn để ký
FTA, tạo thuận lợi cho những cuộc đàm phán FTA tiếp theo giữa Israel và các quốc
gia khác trong khu vực Đông Á. Nói cách khác Israel là quốc gia Trung Đông
đầu tiên ký FTA với Việt Nam. FTA sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả Israel
và Việt Nam. Hai nước sẽ có nhiều cơ
hội hợp tác trên các lĩnh vực gồm kinh tế, thương mại, đào tạo, khoa học
công nghệ, nông nghiệp, thủy lợi, y tế…
(+)
Với Thổ Nhĩ Kỳ: Việt Nam chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao với Thổ Nhĩ Kỳ năm 1978. Tuy vậy, phải đến năm 2003, Việt
Nam nâng cấp lên đại sứ quán tại Ankara (trước đó là tổng lãnh sự
quán tại Istanbul); trước đó 6 năm, năm 1997 Thổ Nhĩ Kỳ đã lập đại
sứ quán thường trú tại Hà Nội. Quan hệ song phương, đặc biệt là quan
hệ kinh tế, thực sự khởi sắc sau năm 2014, khi hai nước ký rất nhiều
hiệp định, thỏa thuận… Năm
2023, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh
Chính thăm chính thức Thổ Nhĩ Kỳ, đây cũng là năm hai
nước kỷ niệm 45 năm quan hệ ngoại giao. Việt Nam-Thổ
Nhĩ Kỳ duy trì quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều
mặt, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương. Tính đến năm 2023, Thổ Nhĩ
Kỳ xếp thứ 26/243 quốc gia/vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Thổ Nhĩ
Kỳ hiện là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam tại Trung
Đông và là cửa ngõ để hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Trung Đông và
Nam Âu.
Bốn
là: Việt Nam chú trọng hợp tác với các quốc gia Châu Phi theo “Đề án phát triển quan hệ giữa Việt Nam
và các nước Trung Đông - Châu Phi giai đoạn 2016-2025”, ngoài ra cũng xem
xét khả năng hợp tác với các quốc gia tiềm năng khác.
Theo Đề án, Việt Nam tập trung vào 5 quốc gia gồm
Ai Cập, Algeria, Nam Phi,
Mozambique, Angola. Theo nhận định mới của nhóm
tác giả, có 5 quốc gia chủ chốt ở châu Phi gồm Ai Cập, Algeria,
Tunisia, Morocco (nằm ở Bắc Phi) và Nam Phi (nằm ở tiểu khu vực Nam
Phi). Ngoài ra là một số quốc gia có vị trí thấp hơn, nằm ở các
tiểu khu vực khác, gồm Libya, Angola, Nigeria.
Như vậy, có 3 quốc
gia vừa theo Đề án, vừa thuộc nhóm các quốc gia chủ chốt, bao gồm Ai
Cập (thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1963), Algeria (năm
1962), Nam Phi (năm 1993). Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 3 quốc gia
này đều tối thiểu 30 năm, nhiều nhất là 60 năm. Còn Angola là quốc
gia có mức độ quan trọng thấp hơn trong nhóm các quốc gia chủ chốt ở
châu lục. Mozambique không thuộc nhóm các quốc gia chủ chốt, tuy nhiên
đây lại là quốc gia mà Việt Nam đạt nhiều thành tựu hợp tác nổi
bật về đầu tư trong lĩnh vực viễn thông. Có thể nhận định rằng, quan
điểm của Việt Nam vẫn là tăng cường hợp tác với các quốc gia chủ
chốt nói riêng, các quốc gia khác ở châu Phi nói chung, trong đó trước
hết là quan hệ ngoại giao tốt đẹp, tiếp đó là kinh tế - thương mại -
đầu tư, hợp tác an ninh nhằm giữ gìn các mục tiêu hòa bình chung.
Năm là: Dự
báo về Việt Nam đến năm 2030 và 2045, hoạt động ngoại giao sẽ tiếp tục
theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, kinh tế Việt Nam sẽ tăng
trưởng bền vững và nhấn mạnh vào các lĩnh vực ứng dụng công nghệ
cao. Do đó, nhu cầu tăng cường hợp tác với Ấn Độ (về công nghệ cao,
công nghệ mới, quốc phòng – an ninh), các nước Trung Đông (có nguồn
vốn dồi dào, có lĩnh vực công nghệ cao phát triển mạnh), các nước
Châu Phi (có thị trường rộng, nhu cầu hàng hóa lớn, khả năng hợp tác
trong một số lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam như nông nghiệp, viễn
thông..) sẽ khả thi.
6. GÓC NHÌN TỪ NGHIÊN CỨU KHU VỰC: CUNG CẤP
LUẬN CỨ KHOA HỌC CHO ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Trong
suốt hành trình 80 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đường lối đối ngoại đúng đắn
của Đảng luôn được soi sáng bởi tư tưởng Hồ Chí Minh và được bổ sung, phát triển
dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn sâu sắc và những luận cứ khoa học vững chắc.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, vai trò của công tác
nghiên cứu, dự báo chiến lược càng trở nên quan trọng. Với chức năng nghiên cứu
chuyên sâu về các khu vực chiến lược, Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi
đang ngày càng khẳng định vai trò trong việc hỗ trợ Đảng và Nhà nước nhận diện
xu thế, đánh giá cơ hội và đề xuất các định hướng chính sách phù hợp.
Thứ nhất: Khu vực
Nam Á, Tây Á và Châu Phi tiếp tục là trọng điểm địa chính trị, nơi diễn ra sự
cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc. Thời gian tới,
cuộc xung đột sẽ chủ yếu diễn ra ở khu vực này, khiến thay đổi cục
diện thế giới, đây là nhân
tố lớn thúc đẩy nhanh sự hình thành trật tự đa cực, đa trung tâm. Trung
Đông-Châu Phi khiến gia tăng khu vực hoá, phân mảnh toàn cầu hoá, ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Đây cũng là khu vực góp phần làm gia tăng bất ổn
và chạy đua vũ trang.
Thứ hai: Nhận diện
được tầm quan trọng của khu vực nghiên cứu, Viện đã chủ động xây dựng các nhiệm
vụ chuyên sâu, tập trung vào những chủ đề mang tính thời sự và chiến lược, như: chính sách
đối ngoại của Ấn Độ trong cục diện Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; cục diện
Trung Đông - Châu Phi đến năm 2030, tác động đến cục diện và trật tự
thế giới; “chủ nghĩa dân tộc Arab” định hình ý thức hệ chủ đạo ở
các quốc gia Arab Trung Đông - Bắc Phi; chiến lược trung lập chủ động của
các quốc gia chủ chốt Trung Đông trong cạnh tranh nước lớn; vai trò của Liên
minh châu Phi trong việc chi phối cục diện khu vực…
Thứ ba: Từ các kết
quả nghiên cứu, Viện đã thường xuyên đóng góp những luận cứ khoa học và đề xuất
chính sách cho các cơ quan hoạch định chiến lược. Một số khuyến
nghị nổi bật có thể kể đến như: (+) Trong quan hệ với khu vực Nam Á, Viện
đã đề xuất các lộ trình cụ thể để làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược
toàn diện với Ấn Độ. (+) Trong hợp tác với Trung Đông, Viện đưa ra các
kiến nghị trong việc thúc đẩy đàm phán các hiệp định thương mại tự do với
UAE, Israel; đẩy mạnh thu hút nguồn vốn từ các quỹ đầu tư của các nước
thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC); thúc đẩy và khai thác thị trường
Halal còn nhiều tiềm năng. (trong đó nhấn mạnh vào hợp tác Halal trong
lĩnh vực du lịch và công nghiệp thực phẩm). (+) Trong lĩnh vực nghiên cứu
Châu Phi, Viện đã đề xuất việc gia tăng hợp tác với các đối tác mới
ngoài Đề án đã có, các mô hình hợp tác mới về nông nghiệp công nghệ cao,
năng lượng tái tạo, khai khoáng bền vững. Từ đó, Việt nam có thể gia
tăng hợp tác nhiều mặt với khu vực nghiên cứu; xây dựng hình ảnh Việt
Nam là một đối tác tin cậy, hợp tác bình đẳng và không vụ lợi.
Thứ tư: Viện cũng
tích cực tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế, tọa đàm chính sách với các viện
nghiên cứu hàng đầu từ Ấn Độ, UAE, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Nam Phi... Đây không chỉ là
diễn đàn để trao đổi học thuật mà còn là một kênh quan trọng của ngoại giao tri
thức, góp
phần xây dựng lòng tin và tạo ra mạng lưới kết nối phục vụ lợi ích quốc gia. Viện
cũng đẩy mạnh công tác xuất bản (sách, kỷ yếu khoa học, tạp chí…).
Đây cũng là nguồn đầu vào quan trọng phục vụ công tác đối ngoại.
Thứ năm: Trong
thời gian tới, theo chủ trương mới của Đảng và Nhà nước về việc
triển khai 4 nghị quyết “Bộ tứ trụ cột” (Thể chế; Kinh tế tư nhân;
Khoa học-công nghệ; Hội nhập), Viện sẽ tích cực triển khai và cụ
thể hóa các nghị quyết này thông qua các công trình nghiên cứu mang
tính khoa học và thực tiễn. Trong đó tập trung vào các nghị quyết
có liên quan trực tiếp đến khu vực nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi
(gồm Nghị quyết số 68-NQ/TW
ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa
học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị
quyết số 59/NQ-TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập
quốc tế trong tình hình mới.
Hành
trình 80 năm đã chứng kiến sự trưởng thành của đất nước trên mọi lĩnh vực,
trong đó có sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn phục vụ sự nghiệp
cách mạng. Với tinh thần đó, Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và Châu Phi xác định
rõ sứ mệnh của mình không chỉ là một đơn vị nghiên cứu thuần túy, mà là một mắt
xích quan trọng trong hệ thống tham mưu chiến lược quốc gia. Viện sẽ tiếp tục đẩy
mạnh nghiên cứu ứng dụng, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo, xây dựng đội
ngũ chuyên gia khu vực học tinh nhuệ, để đóng góp thiết thực vào công cuộc bảo
vệ lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế trong giai
đoạn phát triển mới.
KẾT LUẬN
Hành
trình 80 năm độc lập dân tộc là một bản hùng ca, trong đó ngoại giao luôn là một
mặt trận quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Suốt chặng đường lịch sử ấy, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng
tư tưởng vững chắc, là kim chỉ nam soi đường cho đường lối đối ngoại đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta. Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, Việt Nam
đã vươn lên mạnh mẽ, trở thành một thành viên tích cực, chủ động và có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế, với một vị thế ngày càng được khẳng định. Nhìn lại
chặng đường 80 năm đã qua, có thể khẳng định: nhờ vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh - kết tinh giữa lý tưởng cách mạng, truyền thống dân tộc và tầm nhìn
thời đại - đã hun đúc nên một trường phái ngoại giao Việt Nam đặc sắc: mềm dẻo
nhưng kiên định, linh hoạt nhưng có nguyên tắc, đa phương hóa nhưng không đánh
mất bản sắc, hội nhập sâu rộng nhưng luôn giữ vững độc lập, tự chủ. Đó chính là
di sản quý báu, là niềm tin và là sức mạnh để chúng ta vững bước tương lai.
Trong
giai đoạn phát triển mới của đất nước, bối cảnh thế giới đang đặt ra cả những
cơ hội lớn và thách thức không nhỏ. Sự cạnh tranh chiến lược, xung đột địa
chính trị và những biến đổi sâu sắc của kinh tế toàn cầu đòi hỏi chúng ta phải
không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại, nhưng tuyệt đối không được xa rời nền tảng
cốt lõi là lợi ích quốc gia – dân tộc. Vai trò của công tác nghiên cứu khoa học,
đặc biệt là nghiên cứu khu vực học chuyên sâu, vì thế càng trở nên quan trọng.
Đây chính là "nguồn lực trí tuệ" giúp Đảng và Nhà nước có những phân
tích, dự báo sắc bén, từ đó đưa ra những đối sách phù hợp, hiệu quả.
Kỷ
niệm 80 năm ngày độc lập, chúng ta càng thêm tự hào về con đường đã qua và vững
tin vào tương lai phía trước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, được soi đường
bởi tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và được hỗ trợ bởi nền tảng khoa học vững
chắc, nền ngoại giao Việt Nam nhất định sẽ tiếp tục phát huy bản lĩnh, trí tuệ
và tâm thế chủ động. Qua đó, chúng ta không chỉ bảo vệ vững chắc môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển, mà còn tạo dựng một vị thế xứng đáng trên trường
quốc tế, góp phần hiện thực hóa khát vọng về một nước Việt Nam hùng cường, thịnh
vượng vào năm 2045./.
Đến đến tháng 5/2025, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia
trên thế giới, trong đó:
+ Quan hệ Đối tác Chiến
lược toàn diện với 13 quốc gia;
+ Quan hệ Đối tác Chiến
lược với 10 quốc gia,
+ Quan hệ Đối tác Toàn
diện với 14 quốc gia (gồm cả UAE - tháng 10/2024, trong Thủ tướng Chính phủ
Phạm Minh Chính thăm chính thức Các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (UAE); Ai
Cập - tháng 8/2025, trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Lương Cường
đến Ai Cập) (nguồn: Thông tấn xã Việt Nam. 2025)