Tại
buổi sinh hoạt, báo cáo viên đã nhận định rằng chuyển đổi số đã trở thành dòng
chảy không thể đảo ngược: công nghệ đang len lỏi vào mọi lĩnh vực, từ điều hành
Nhà nước đến sinh kế của từng hộ gia đình. Xu hướng này mở ra cơ hội bứt phá
nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ phân hoá trong xã hội do khoảng cách lứa tuổi, khoảng
cách vùng miền. Báo cáo của Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số cho biết kinh tế số
Việt Nam năm 2024 ước đạt 18,3 % GDP và với tốc độ tăng trưởng bình quân 20 % mỗi
năm, tốc độ nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (Báo Chính phủ, 2025). Trong khi đó, Báo
cáo “Digital 2025: Vietnam” ghi nhận 79,8 triệu người dùng Internet, tương
đương 78,8 % dân số (Data Reportal, 2025). Những con số này cho thấy tiềm lực
rõ rệt, tuy nhiên ẩn dấu phía sau những con số hào hứng về kinh tế số Việt Nam,
vẫn còn tồn tại một “khoảng trống số” đáng lo ngại.
Hiện
tại có khoảng 20% dân cư tương ứng với hơn 20 triệu người chưa vào không gian số,
chủ yếu sống ở nông thôn hoặc vùng sâu vẫn chưa có kết nối ổn định. Tính tới
năm 2024, vẫn còn 761 ngôi làng không có vùng phủ sóng băng thông rộng di động.
Khoảng trống số còn thể hiện rõ tại các vùng miền khác nhau, đặc biệt là trong
cộng đồng người dân tộc thiểu số và những người lớn tuổi. Nói cách khác, hạ tầng
đã tới xã, nhưng kỹ năng chưa tới nhà; điện thoại đã rẻ, nhưng nội dung và hướng
dẫn vẫn khan hiếm. Nếu không hành động, nhóm yếu thế sẽ bị bỏ lại trên lề đường
phát triển; khi ấy tăng trưởng số chỉ là “vườn hoa trước cổng” chứ chưa thành
“ruộng lúa của toàn dân”.
Trước
“khoảng trống số” đó, Chính phủ đã ban hành Chương trình Chuyển đổi số Quốc
gia, quá trình chuyển đổi được cấu trúc dựa trên ba trụ cột nền tảng: (1) Kinh
tế số: chú trọng phát triển hạ tầng số, thương mại điện tử và các mô hình kinh
doanh dựa trên dữ liệu nhằm gia tăng năng suất và mở rộng thị trường cho mọi
thành phần kinh tế; (2) Chính phủ số: thúc đẩy mở dữ liệu, cung cấp dịch vụ
công trực tuyến và cải cách thủ tục hành chính, qua đó nâng cao tính minh bạch,
hiệu quả và mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp; (3) Xã hội số: hướng
đến mục tiêu mọi công dân đều có khả năng tiếp cận, sử dụng và sáng tạo nội
dung số, đồng thời nâng cao năng lực số và bảo đảm an toàn thông tin. Ba trụ cột
được xác định trong đó Chính phủ số được xây dựng nhằm tạo thể chế & dữ liệu,
Kinh tế số tạo giá trị tăng thêm, Xã hội số bảo đảm tính bao trùm, được lượng
hoá bằng các mốc 2025 → 2030. Hoàn thành cột mốc 2025 nghĩa là nền hạ tầng và dịch
vụ đã sẵn sàng; đạt mốc 2030 sẽ đưa Việt Nam lên nhóm dẫn đầu khu vực về chính
phủ điện tử, kinh tế số và an ninh mạng.
Giữa
bối cảnh kỷ nguyên chuyển đổi số của đất nước, với mục tiêu thu hẹp khoảng cách
số, làm thể nào để mỗi người dân trở thành một công dân số tích cực, đóng góp
vào công cuộc chuyển mình của cả dân tộc, báo cáo viên đã nhắc lại lời dạy bất
hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”
Câu
nói hàm chứa chân lý: đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn của mọi thắng lợi.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đoàn kết không chỉ nằm ở ý chí, mà còn phải
hiện diện trên nền tảng số, nơi tri thức được san sẻ và giá trị được tạo sinh.
Cốt lõi của nền móng vững chắc cho chuyển đổi số chính là sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc. Sự đồng lòng từ các vùng miền, sự chung tay của các tổ chức xã hội và
tôn giáo, sự cống hiến của trí thức, doanh nhân, thanh niên, và sự đóng góp của
kiều bào đã tạo nên một "hạ tầng mềm" vô cùng quan trọng. Chính nhờ sự
gắn kết này, Việt Nam đang biến đoàn kết thành động lực mạnh mẽ để thúc đẩy quá
trình chuyển đổi số toàn diện và bền vững.
Một
trong những sáng kiến nổi bật nhằm hiện thực hóa trụ cột Xã hội số là phong
trào “Bình dân học vụ số”, triển khai toàn quốc từ tháng 3/2025. Nền tảng trực
tuyến binhdanhocvuso.gov.vn, do Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng Đại
học Bách Khoa đã phát triển đã xây dựng các khóa học miễn phí, bao phủ nội dung
từ kỹ năng smartphone cơ bản, an toàn dữ liệu đến thương mại điện tử và trí tuệ
nhân tạo; nền tảng hỗ trợ đăng nhập một lần qua VNeID, đồng thời sử dụng công cụ
AI để gợi ý lộ trình học tập cá nhân hóa cho người học. Mô hình khẳng định
phương châm: “Đoàn kết là hạ tầng, công nghệ là công cụ, người dân là chủ thể”.
Khi tinh thần đại đoàn kết hòa quyện cùng công nghệ bình dân, chuyển đổi số trở
thành hiện thực bao trùm, mang lại lợi ích thiết thực cho mọi công dân. Mô hình
cho thấy khi chính sách vĩ mô kết hợp sức mạnh cộng đồng, chuyển đổi số không
chỉ dừng ở dữ liệu hay phần mềm mà trở thành chính sách phát triển con người.
ThS.NCS.
Nguyễn Thị Hiên
Trung
tâm Nghiên cứu Ấn Độ
Nguồn
tham khảo
Báo
Chính phủ. (2025). Kinh tế số Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất khu vực. https://baochinhphu.vn/kinh-te-so-viet-nam-tang-truong-nhanh-nhat-khu-vuc-102250206152332651.htm
Data
Reportal. (2025). Digital 2025: Vietnam. https://datareportal.com/reports/digital-2025-vietnam